Lịch sử Nội_Mông

Thời Tiên Tần

Trên 5.000 năm trước, một bộ phận của Nội Mông nằm trong phạm vi ảnh hưởng của văn hóa Ngưỡng Thiều.[5] Các di chỉ của nền văn hóa Hồng Sơn nằm trải dải trong lưu vực Liêu Hà từ Nội Mông đến Liêu Ninh và có niên đại từ khoảng 4700 TCN đến 2900 TCN.[6]

Trước thời Xuân Thu, khu vực Nội Mông hiện nay là nơi sinh sống của các dân tộc du mục như Hung Nô ở phía tây và Đông Hồ ở phía đông. Theo Sử ký, sau khi nhà Hạ bị tiêu diệt, một người con trai của vua KiệtThuần Duy (淳維) đã chạy lên phía bắc và lập nên Hung Nô.[7]

Cuối thời Chiến Quốc, lãnh thổ của các nước chư hầu như Yên, TriệuTần đã phát triển đến khu vực Nội Mông ngày nay. Dân tộc Hoa Hạ bắt đầu đến định cư tại phía nam dãy núi Âm Sơn.

Triệu Vũ Linh vương (trị vì 325 TCN-299 TCN) của nước Triệu đã tiến hành truyền bá "hồ phục kị xạ", theo đó binh sĩ nước Triệu phải ăn mặc giống như quân Hung Nô và các cỗ chiến xa được thay thế bằng các cung thủ kị binh. Năm 306 TCN, quân Triệu đánh lên phía bắc, hàm phục nhiều tiểu quốc. Năm 304 TCN, Vũ Linh vương phát động chiến tranh với các bộ lạc ở thượng nguồn Hoàng Hà, mở mang lãnh thổ. Sau khi đánh bại hai dân tộc du mục là Lâm Hồ (林胡) và Lâu Phiền (樓煩), Triệu đã xây dựng Vân Trung thành ở khu vực huyện Thác Khắc Thác của Hô Hòa Hạo Đặc ngày nay. Từ đó, người Hoa Hạ ở Trung Nguyên bắt đầu đến Hô Hòa Hạo Đặc định cư. "Triệu Trường Thành" đi qua Đại Thanh Sơn ở phía bắc của Hô Hòa Hạo Đặc.

Thời kỳ Yên Chiêu vương, có tướng Tần Khai (秦开), phải sang Đông Hồ làm con tin. Sau khi về nước, Tần Khai khởi binh tập kích, đại phá Đông Hồ. Sau đó, Yên cho xây dựng "Yên Bắc Trường Thành". Yên cũng lập ra Bắc Bình bộ ở phía nam Xích Phong ngày nay, trị sở tại Ninh Thành.[8] Sau đó, Đông Hồ phải thiên di về phía bắc.

Thời Tần, Hán, Hung Nô

Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã cho xây dựng Vạn Lý Trường Thành, kết nối các đoạn Trường Thành của các nước chư hầu trước đây nhằm phòng thủ Hung Nô. Các khu vực ở phía nam dãy núi Âm Sơn như Vân Trung quận là các trọng trấn về biên phòng.

Năm 209 TCN, người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền của một thiền vu mới có tên gọi là Mặc Đốn (冒顿). Người ta cho rằng sự thống nhất Trung Quốc đã thúc đẩy các bộ lạc du cư tập hợp lại xung quanh một trung tâm chính trị nhằm củng cố vị thế của họ.[9]. Một giả thuyết khác là sự tái cơ cấu này là cách thức phản ứng của họ đối với khủng hoảng chính trị đã diễn ra đối với họ khi vào năm 215 TCN, quân đội nhà Tần do Mông Điềm chỉ huy đã xua đuổi họ ra khỏi các thảo nguyên bên Hoàng Hà.[10] Năm 206 TCN, Hung Nô tiêu diệt Đông Hồ, thống nhất thảo nguyên Mông Cổ, lập ra đế quốc Hung Nô với lãnh thổ rộng lớn, trải rộng đến lưu vực Liêu Hà ở cực đông, cực tây đến Thông Lĩnh (tức dãy núi Pamir), nam đến Trường Thành của Tần.

Khi đó, khu vực Nội Mông trở thành tiêu điểm tranh đoạt giữa Hung Nô và triều đại Trung Nguyên, giữa Hung Nô và nhà Hán đã xảy ra hàng trăm cuộc chiến tranh. Năm 158 TCN, Quân Thần thiền vu đã đem 3 vạn quân tấn công nhà Hán ở Vân Trung thuộc Nội Mông Cổ ngày nay. Năm 127 TCN, quân Hán tấn công và trục xuất bộ lạc Lâu Phiền (楼烦, 樓煩) và Bạch Dương (白羊) của người Hung Nô từ Ngạc Nhĩ Đa Tư, và sau đó cho xây các công sự và thành để phòng ngự vùng lãnh thổ mới chiếm được. Năm 125 TCN, dưới thời Y Trĩ Tà thiền vu, quân Hung Nô với 3 đội quân, mỗi đội có 30.000 kị binh đã tiến đánh các quận của Trung Quốc. Tả Cốc Lễ vương tức giận trước việc nhà Hán đã lấy đi Ngạc Nhĩ Đa Tư và cho lập Sóc Phương quận (朔方郡), đã vài lần tấn công biên giới với Trung Quốc; và khi tiến vào Ngạc Nhĩ Đa Tư, đã cướp bóc Sóc Phương, giết và bắt giữ nhiều quan lại cũng như dân chúng.

Sau khi bị Mạc Đốn thiền vu đánh bại, tàn dư của Đông Hồ tụ cư ở Ô Hoàn Sơn và Tiên Ti Sơn, về sau hình thành tộc Ô Hoàn và tộc Tiên Ti. Từ đó, tên gọi Đông Hồ biến mất trong lịch sử. Ô Hoàn Sơn và Tiên Ti Sơn nằm ở khu vực Nội Mông ngày nay. Năm 207, Tào Tháo đem quân tiến sâu vào lãnh thổ của người Ô Hoàn, đánh bại họ tại trận núi Bạch Lang (白狼山), giết chết thủ lĩnh Đạp Đốn. Khoảng 20 vạn người Ô Hoàn đã hàng Tào Tháo. Nhiều kỵ binh Ô Hoàn đã gia nhập đội quân của Tào Tháo và trở thành "thiên hạ đệ nhất kỵ đội".

Năm 53 TCN, Hô Hàn Tà thiền vu (呼韓邪單于) đã chấp thuận triều cống cho nhà Hán, tuy nhiên người Hung Nô vẫn duy trì được chủ quyền chính trị và độc lập hoàn toàn về lãnh thổ. Vạn Lý Trường Thành vẫn tiếp tục là đường ranh giới giữa nhà Hán và nhà nước Hung Nô. Năm 48, Hung Nô phân thành hai bộ phận là Nam và Bắc, Nam Hung Nô lập Nhật Trục Vương Bỉ làm thiền vu, dựng nên triều đình tại Bao Đầu, Nội Mông ngày nay, xưng thần với Đông Hán, được Hán Quang Vũ Đế cho an trí tại khu vực Hà Sáo. Nam Hung Nô sau đó dần dần di chuyển vào Trung Nguyên.

Vào thời kỳ toàn thịnh, triều đình Hán đã thiết lập quận huyện ở Mạc Nam. Năm 127 TCN, triều đình đã thiết lập Ngũ Nguyên quận và Sóc Phương quận, địa hạt bao gồm khu vực Ba Ngạn Náo Nhĩ, Bao ĐầuNgạc Nhĩ Đa Tư ngày nay.

Thời Tiên Ti và Nhu Nhiên

Tộc Tiên Ti sau đó chủ yếu hoạt động tại phía đông Nội Mông Cổ, trong khu vực phụ cận sông Cáp Cổ Lặc (哈古勒河) thuộc hữu dực trung kì Khoa Nhĩ Thấm ngày nay. Thời Lưỡng Tấn-Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc, Nội Mông là một trong những bàn đạp để các tộc người Hồ xâm nhập Trung Nguyên. Sau khi Tấn Tấn diệt vong, người Tiên Ti đã lập ra nhiều nước ở phía bắc Trung Quốc như Tiền Yên, Đại, Hậu Yên, Tây Yên, Tây Tần, Nam Lương, Nam YênBắc Ngụy.

Trong khi người Tiên Ti xâm nhập Trung Nguyên, người Nhu Nhiên (một nhánh của người Tiên Ti còn ở lại vùng thảo nguyên Mông Cổ) đã nổi lên, lập quốc ở khu vực Hô Luân phía đông Nội Mông ngày nay. Năm 439, nước Bắc Ngụy của bộ lạc Thác Bạt tộc Tiên Ti thống nhất phương Bắc Trung Quốc. Sau đó, Bắc Ngụy và Nhu Nhiên thường phát sinh xung đột. Để phòng thủ trước Nhu Nhiên, Bắc Ngụy đã lập ra Lục trấn ở biên cảnh phía bắc, nay là phía đông khu vực Hà Sáo và phía nam dãy Âm Sơn thuộc Nội Mông. Sau đó, do triều Bắc Ngụy tích cực thực hiện chính sách Hán hóa, một số tướng sĩ đã tiến hành loạn Lục Trấn.

Sau loạn Lục Trấn, Bắc Ngụy bị phân thành Đông NgụyTây Ngụy, sau lại bị Bắc Tề và Bắc Chu thay thế tương ứng. Cuối cùng, Bắc Chu thống nhất phương Bắc Trung Quốc. Sau đó, Dương Kiến soán vị Bắc Chu, lập ra nhà Tùy. Ở Tái Bắc, Nhu Nhiên hãn quốc bị Đột Quyết hãn quốc tiêu diệt vào năm 552. Đột Quyết cùng Bắc Tề và Bắc Chu đều kiểm soát một phần Nội Mông

Thời Tùy, Đường, Đột Quyết, Hồi Cốt

Đến thời Tùy, Nội Mông bị phân chia giữa Đột Quyết và triều đại Trung Nguyên. Năm Khai Hoàng thứ 19 (599) thời Tùy Văn Đế, Đột Lợi khả hãn của Đông Đột Quyết do thất bại trong nội chiến đã đi xuống phía nam quy phục triều đình nhà Tùy, được Tùy Văn Đế sách phong là Khải Dân khả hãn. Sau đó Khải Dân khả hãn kiến lập chính quyền tại Nội Mông, lệ thuộc vào triều đình trung ương Tùy. Triều đình nhà Tùy và chính quyền Khải Dân duy trì quan hệ tông phiên mật thiết và cử sứ thần qua lại. Tùy Dạng Đế trước sau đã hai lần tự mình tuần thú vùng Tái Bắc, mở đầu cho tiền lệ các hoàng đế Trung Nguyên đích thân tuần thú chính quyền phiên thuộc Tái Bắc.[11] Năm Đại Nghiệp thứ 7 (611), Xử La khả hãn của Tây Đột Quyết đã quy phục triều đình nhà Tùy, từ đó toàn bộ vùng Nội Mông và Ngoại Mông thuộc quyền quản lý của triều đình Tùy.

Thời Đường Thái Tông, Hiệt Lợi khả hãn của Đông Đột Quyết dựng lều dã chiến tại Định Tương (nay thuộc huyện Thanh Thủy Hà của Nội Mông), gây chiến với Đường. Tháng 1 năm Trinh Quán thứ 4 (630), Đường sai Lý Tĩnh suất ba nghìn kị binh tinh nhuệ lợi dụng đêm tối tấn công vào nơi dựng lều của Hiệt Lợi, buộc Hiệt Lợi phải chạy đến Thiết Sơn (nay là khoáng khu Bạch Vân Ngạc Bác của Nội Mông). Tháng 3 năm Trinh Quán thứ 4 (630), Hiệt Lợi khả hãn bị bắt. Quân Đường đưa Hiệt Lợi khả hãn đến Trường An, về sau Hiệt Lợi khả hãn chịu đầu hàng nhà Đường, mất vì tuổi già tại Trường An.

Trên vùng đất cũ của Đột Lợi khả hãn (tiểu khả hãn của Đông Đột Quyết), triều đình nhà Đường thiết lập bốn châu đô đốc phủ là Thuận, Hữu, Hóa và Trường; còn vùng đất cũ của Hiệt Lợi khả hãn thì lập Định Tương đô đốc phủ và Vân Trung đô đốc phủ. Năm 646, Đường liên hiệp với bộ lạc Hồi HộtThiết Lặc để tiêu diệt Tiết Diên Đà. Yên Nhiên đô hộ phủ quản lý vùng đất của người Thiết Lặc, trị sở đặt tại chân núi Âm Sơn (nay thuộc hậu kỳ Hàng Cẩm của Nội Mông). Năm 650, tướng Cao Khản (高侃) chỉ huy quân Đường bắt được Xa Tị khả hãn, từ đó đất cũ của Đông Đột Quyết nằm dưới quyền cai quản của triều đình nhà Đường. Đường Cao Tông đã thiết lập Hãn Hải đô hộ phủ (sau cải thành Thiền Vu đô hộ phủ), trị sở đặt tại Vân Trung cố thành (nay thuộc Hòa Lâm Cách Nhĩ của Nội Mông) và ba đô đốc Lĩnh Lang Sơn, Vân Trung, Tang Can. Những năm đầu Ngũ Đại Thập Quốc, người Khiết Đan xâm nhập, đến năm 916 thì họ đã chiếm được Vân Trung cố thành, Thiền Vu đô hộ phủ bị phế trừ.

Lãnh thổ của Hồi Cốt vào khoảng năm 820

Năm 742, các bộ tộc người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur), Cát La Lộc (Karluk), và Bạt Tất Mật (Basmyl) đã nổi dậy chống lại quyền thống trị của Đông Đột Quyết.[12] Lãnh đạo Duy Ngô Nhĩ trở thành khả hãn tại cao nguyên Mông Cổ và lập ra Hồi Cốt. Theo các thư tịch Trung Hoa, lãnh thổ của Hồi Cốt sau đó đạt đến "ở cực đông đến lãnh thổ của người Thất Vi, phía tây đến dãy núi Altai, ở phía nam kiểm soát sa mạc Gobi, do vậy bao trùm toàn bộ lãnh thổ Hung Nô cổ".[13] Cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn vào năm 755 đã buộc Đường Túc Tông phải đề nghị Anh Vũ khả hãn của Hồi Cốt giúp đỡ vào năm 756. Khả hãn đồng ý, ra lệnh cho con trai cả đem quân hỗ trợ Hoàng đế nhà Đường. Kết quả, Hồi Cốt đã nhận được tặng phẩm của Đường vào năm 757 với 20.000 cuộn lụa và Anh Vũ khả hãn được Hoàng đế nhà Đường gả cho một người cháu gái là Ninh Quốc công chúa. Cuối cùng, quân Kiên Côn từ phía bắc đã xâm lược và phá hủy đế chế của người Duy Ngô Nhĩ, dẫn đến việc người Duy Ngô Nhĩ phải sống lưu vong khắp Trung Á. Minh giáo là quốc giáo của Hồi Cốt. Ngoài ra, ở phía đông của Nội Mông, người Khiết Đan cũng bắt đầu nổi lên.

Thời Liêu, Kim, Tây Hạ

Tranh mô tả các thợ săn người Khiết Đan

Cuối thời Đường, khi mà Trung Nguyên bắt đầu bị chiến tranh loạn lạc thì tộc Khiết Đan nhân cơ hội này nổi lên, trở thành một thế lực rất hùng mạnh ở vùng Nội Mông. Họ thường bắt người Hán về làm ruộng và thu thuế. Đầu thời Ngũ Đại Thập Quốc tại Trung Nguyên, người Khiết Đan dưới sự lãnh đạo của Da Luật A Bảo Cơ đã sáng lập nên chính quyền Khiết Đan vào năm 907, kiến lập Khiết Đan quốc vào năm 916, đến năm 947 thì đổi quốc hiệu thành Liêu. Lúc đầu, A Bảo Cơ lập quốc đô tại Hoàng Đô (sau đổi là Thượng Kinh, nay là thành Ba La, phía nam tả kỳ Ba Lâm thuộc Nội Mông). Sau đó, người Khiết Đan lại định đô ở Lâm Hoàng (nay cũng thuộc tả kỳ Ba Lâm của Nội Mông), gọi là Thượng Kinh. Thời Liêu, Nội Mông Cổ phân thuộc Thượng Kinh đạo với trị sở tại Lâm Hoàng phủ (tả kì Ba Lâm ngày nay), Trung Kinh đạo với trị sở tại Đại Định phủ (Ninh Thành ngày nay) và Tây Kinh đạo với trị sở tại Đại Đồng phủ (nay thuộc Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây).

Người Nữ Chân ở vùng Đông Bắc Trung Quốc đã nổi dậy và cuối cùng đã tiêu diệt triều Liêu của người Khiết Đan vào năm 1125. Tàn dư của triều Liêu đã lập ra Bắc Liêu ở khu vực Bắc Kinh và Ninh Thành của Nội Mông hiện nay, tuy nhiên cũng sớm bị Kim tiêu diệt. Khi đó, đại bộ phận trung bộ và đông bộ Nội Mông thuộc quyền kiểm soát của Kim.

Trong thời gian này, khu vực tây nam Nội Mông thuộc quyền kiểm soát của nước Tây Hạ- do người Đảng Hạng thành lập nên. Sau khi thành lập, Tây Hạ liên minh với Liêu chống lại Tống, đôi khi cho quân tiến vào lãnh thổ Tống. Năm 1044, Tây Hạ và Tống hòa hoãn, Tây Hạ chịu thần phục Tống, song Hạ và Liêu lại trở nên đối địch. Sau khi Lý Nguyên Hạo chết, Tây Hạ chịu nhiều thất bại quận sự trước Liêu, nên cũng phải thần phục Liêu.

Thời Mông Nguyên, Bắc Nguyên

Vạn Lý Trường Thành ở vùng ranh giới giữa Nội Mông và Sơn Tây. Phần lớn các đoạn Trường Thành còn lại đến nay được xây vào thời Minh

Thành Cát Tư Hãn đã thống nhất các bộ lạc Mông Cổ vào năm 1206 và lập ra đế quốc Mông Cổ, người Mông Cổ tiêu diệt Tây Hạ vào năm 1227, và tiêu diệt Kim vào năm 1234. Năm 1271, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt đã lập ra nhà Nguyên. Năm 1260, Hốt Tất Liệt đã đăng cơ tại Khai Bình, nằm gần Đa Luân của Nội Mông ngày nay. Năm 1263, Hốt Tất Liệt hạ chiếu thăng Khai Bình thành Thượng Đô. Năm 1267, Hốt Tất Liệt đã thiên đô về Trung Đô của Kim trước đây (tức Bắc Kinh ngày nay), Thượng Đô trở thành bồi đô của nhà Nguyên. Trong thời gian này, các bộ tộc Uông Cổ (Ongud) và Hoằng Cát Lạt (Onggirat) là các sắc dân thống trị khu vực nay là Nội Mông.

Thời Nguyên, bắc bộ Nội Mông thuộc Lĩnh Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh, tỉnh hội đặt tại Hòa Lâm (Karakorum, nay thuộc nước Mông Cổ). Khu vực Hô Luân Bối Nhĩ và Thông Liêu ở đông bộ thuộc Liêu Dương đẳng xứ hành trung thư tỉnh, một bộ phận tây bộ Nội Mông thuộc Cam Túc đẳng xứ hành trung thư tỉnh, một bộ phận nhỏ ở trung bộ Nội Mông thuộc Trung thư tỉnh (chịu sự quản lý trực tiếp của triều đình trung ương Nguyên).

Ngày 8 tháng 1 năm 1359, Hồng cân quân (紅巾軍) đã công nhập Thượng Đô, đốt phá cung điện. Ngày 20 tháng 7 năm 1369, quân Minh công chiếm Thượng Đô. Sau khi trục xuất được người Mông Cổ ra khỏi Trung Nguyên, nhà Minh đã cho tái thiết Vạn Lý Trường Thành, gần tương ứng với ranh giới phía nam của khu tự trị Nội Mông hiện nay. Còn người Mông Cổ sau khi để mất Trung Nguyên đã rút về Tái Ngoại, phía bắc sa mạc Gobi và tái lập Bắc Nguyên. Nội Mông trở thành nơi đối kháng giữa Bắc Nguyên và Minh. Trong sự biến Thổ Mộc bảo năm 1449, thủ lĩnh người Ngõa Lạt (Oirat) là Dã Tiên (也先) đã bắt được hoàng đế nhà Minh là Minh Anh Tông. Sau đó, người Mông Cổ lại di chuyển từ phía bắc xuống phía nam. Từ đó đến năm 1635, Nội Mông là trung tâm chính trị và văn hóa của Bắc Nguyên.[14]

Trên thực tế, không lâu sau khi thành lập, Bắc Nguyên đã phân liệt thành các nhóm Thát Đát, Ngõa Lạt và Ngột Lương Cáp. Cuối thế kỷ XV, Đạt Diên Hãn (达延汗) của đông bộ Mông Cổ đã thống nhất Mạc Nam và thực hiện "Trung hưng". Đạt Diên Hãn đã tổ chức lại người Mông Cổ Đông thành 6 tümen (nghĩa là "vạn"). Mặc dù việc này đã làm suy yếu hệ thống quyền lực của dòng dõi hậu duệ Thành Cát Tư Hãn song nó đã tạo ra một tình hình hòa bình và người Mông Cổ Đông có thể mở rộng phạm vi ra bên ngoài. Năm 1572, A Lặc Thản Hãn (阿勒坦汗)-cháu của Đạt Diên Hãn, đã đưa Thổ Mặc Đặc bộ đến địa phận Hô Hòa Hạo Đặc ngày nay, xây dựng thành "Khố Khố Hòa Đồn" trong địa phận Ngọc Tuyền, từ đó, Thổ Mặc Đặc bộ bắt đầu thay đổi phương thức sinh hoạt từ du mục trên thảo nguyên sang định cư. Nền hoà bình tản quyền của người Mông Cổ được dựa trên sự thống nhất tôn giáo và văn hóa tạo ra bởi các hệ thống nghi lễ thờ cúng. A Lặc Thản Hãn thiết lập quan hệ phiên thuộc với nhà Minh, được triều Minh phong là "Thuận Nghĩa vương". Một loại bệnh dịch đậu mùa cùng việc không có thương mại đã khiến người Mông Cổ tràn sang cướp bóc tại các huyện của Trung Quốc. Năm 1571, nhà Minh đã mở cửa giao thương với 3 Tumen Hữu của Đông bộ Mông Cổ. Việc cải sang Phật giáo với quy mô lớn trong Ba Tumen Hữu diễn ra từ năm 1575. Triều đình nhà Minh đã từng thiết lập trên 20 vệ sở Mông Cổ ở tây bộ Liêu Đông, nam bộ Mạc Nam, bắc bộ Cam Túc và Cáp Mật, đứng đầu các vệ sở này là các thủ lĩnh phong kiến Mông Cổ.[15]

Thời Thanh

Từ Đăng tự tháp (慈灯寺塔) tại Hohhot được xây từ năm 1732, tức thời Ung Chính Đế nhà Thanh

Các bộ lạc Mông Cổ Đông chủ yếu thuộc nhánh Khoa Nhĩ Thấm (Khorchin) và Khách Nhĩ Khách (Khalkha) Nam ở khu vực đông bộ Nội Mông đã tiến hành thông hôn, lập liên minh với nhau và từng chiến đầu với người Nữ Chân. Những năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã thành lập nên nước Hậu Kim và dần kiểm soát được các bộ lạc Mông Cổ tại Mãn Châu.[16] Người Mãn tiếp tục giành được quyền kiểm soát đối với các bộ lạc Mông Cổ ở xa hơn tại khu vực Nội Mông vào năm 1635, khi con trai của Lâm Đan Hãn (林丹汗) là Ngạch Triết (额哲) đã hạ lệnh các bộ lạc Sát Cáp Nhĩ của người Mông Cổ đầu hàng người Mãn. Người Mãn sau đó đã xâm nhập Trung Nguyên, lập ra nhà Thanh, tiêu diệt Nam Minh và thống trị toàn cõi Trung Quốc. Trong thời nhà Thanh (1636–1912), các khu vực khác nhau của Mông Cổ được quản lý theo các cách khác nhau:

Thông thường thì người Mông Cổ không được phép để người ngoài vào minh của mình. Tuy nhiên, trong suốt thế kỷ XVIII, người Hán bắt đầu định cư bất hợp pháp với số lượng ngày càng tăng trong vùng thảo nguyên Nội Mông Cổ. Năm 1791, đã có rất nhiều người Hán định cư tại Tiền Quách Nhĩ La Tư kỳ (nay thuộc Cát Lâm) đến nỗi trát tắc khắc (扎萨克, jasak, quan chức Mông Cổ bản địa) đã thỉnh cầu triều đình nhà Thanh hợp pháp hóa tình trạng của những nông dân đã định cư tại kỳ của mình.[17]

Trong thế kỷ XIX, người Mãn ngày càng bị Hán hóa, họ cũng phải đối mặt với mối đe dọa đến từ Nga, vì thế triều đình nhà Thanh bắt đầu cho phép và khuyến khích các nông dân người Hán đến định cư cả ở Mông Cổ lẫn Mãn Châu. Các tuyến đường sắt được xây dựng trong khu vực đặc biệt hữu ích đối với những người Hán định cư. Đất đai của người du mục hoặc là được bán cho các thân vương Mông Cổ, hoặc cho các nông dân người Hán thuê, đôi khi điều này chỉ đơn giản là lấy đất của người du mục và trao cho nông dân người Hán.

Thời Dân Quốc

Ngoại Mông đã giành được độc lập vào năm 1911, khi Triết Bố Tôn Đan Ba Hô Đồ Khắc Đồ (Jebtsundamba Khutuktu, lãnh tụ tinh thần Cách-lỗ phái của Mông Cổ) thứ tám trở thành hãn của Mông Cổ, tức Bogd Khan. Mặc dù hầu hết các kỳ ở Nội Mông công nhận Bogd Khan là lãnh tụ tối cao của người Mông Cổ, tuy nhiên xung đột nội bộ trong khu vực đã ngăn cản một sự thống nhất hoàn chỉnh. Các cuộc nổi dậy của người Mông Cổ tại Nội Mông đã gặp phải trở ngại khi các thân vương Mông Cổ hy vọng vào việc nhà Thanh phục hồi tại Mãn Châu và Mông Cổ do họ nhận định sự cai trị thần quyền của Bogd Khan sẽ làm cản trở mục tiêu hiện đại hóa Mông Cổ.[18]

Trung Hoa Dân Quốc ra đời và hứa hẹn về một quốc gia mới của năm dân tộc (Hán, Mãn, Mông, TạngHồi),[19] và tiến hành đàn áp các cuộc nổi dậy của người Mông Cổ trong khu vực,[20][21] buộc các thân vương tại Nội Mông phải công nhận Trung Hoa Dân Quốc.

Sau đó, chính phủ Quốc dân tái tổ chức Nội Mông thành 5 tỉnh:

  • Nhiệt Hà bao gồm các minh Chiêu Ô Đạt và Trác Tát Đồ, cộng thêm khu vực Thừa Đức thuộc tỉnh Hà Bắc hiện nay.
  • Sát Cáp Nhĩ bao gồm minh Tích Lâm Quách Lặc cũng như phần lớn của Bát kỳ Sát Cáp Nhĩ trước đây.
  • Tuy Viễn bao gồm minh Ô Lan Sát Bố, Y Khắc Chiêu và khu vực Hà Sáo (Quy Hóa thành Thổ Mặc Đặc kỳ trước đó)
  • Hô Luân Bối Nhĩ nằm trong địa phận của tỉnh Hắc Long Giang.
  • Hầu hết minh Triết Lý Mộc thuộc về tỉnh Phụng Thiên.
  • Tây Sáo Mông Cổ, tức hai kỳ A Lạp Thiện và Ngạch Tể Nạp được hợp nhất vào tỉnh Cam Túc. Sau khi Ninh Hạ tách khỏi Cam Túc, Tây Sáo Mông Cổ thuộc về tỉnh Ninh Hạ.

Thời Mãn Châu Quốc và Mông Cương

Đức vương Demchugdongrub, người đứng đầu chính phủ Mông Cương

Sau sự biến Mãn Châu vào năm 1931, vùng Mãn Châu bao gồm cả đông bộ Nội Mông (Hô Luân Bối Nhĩ và Triết Lý Mộc) bị Nhật Bản chiếm đóng. Ngày 18 tháng 2 năm 1932, người Nhật đã tuyên bố thành lập Mãn Châu Quốc, người đứng đầu Mãn Châu Quốc trên danh nghĩa là cựu hoàng đế Phổ Nghi của nhà Thanh. Ban đầu, Mãn Châu Quốc thành 5 tỉnh, trong đó hai tỉnh Hưng An và tỉnh Nhiệt Hà thuộc địa bàn Nội Mông hiện nay. Sau đó, tỉnh Hưng An được thành bốn tỉnh là Hưng An Bắc, Hưng An Đông, Hưng An Tây và Hưng An Nam. Đến năm 1943 thì lại hợp lại thành tổng tỉnh Hưng An.

Trong thời gian diễn ra Chiến tranh Trung-Nhật, vương gia Mông cổ là Đức Quận vương Demchugdongrub đã hợp tác với người Nhật và tuyên bố độc lập tại phần còn lại của Nội Mông (tức tại Tuy Viễn và Sát Cáp Nhĩ). Đến tháng 10 năm 1937, nó được đổi tên thành Mông Cổ Liên minh Tự trị Chính phủ (蒙古聯盟自治政府).[22] Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, các chính quyền chủ yếu là người Hán ở Nam Sát Cáp nhĩ và Bắc Sơn Tây được hợp nhất với Mông Cổ Liên minh Tự trị Chính phủ, hình thành Mông Cương Liên hiệp Tự trị Chính quyền (蒙疆聯合自治政府). Thủ phủ của chính quyền này nằm gần Khách Lạp Can (Trương Gia Khẩu), quyền kiểm soát trải rộng đến tận khu vực quanh Hohhot. Sau khi Uông Tinh Vệ thành lập chính quyền mới của Trung Hoa Dân Quốc ở Nam Kinh, Mông Cương được đặt dưới sự kiểm soát của thế lực này mặc dù vẫn hoàn toàn tự trị.

Trong Chiến dịch Mãn Châu (1945), Hồng quân Liên Xô đã đánh bại quân Nhật, chiếm đóng cả Mãn Châu Quốc lẫn Mông Cương. Liên Xô đã sử dụng Mông Cổ làm căn cứ cho chiến dịch Mãn Châu và đã đánh bại được quân Nhật. Quân đội Nhân dân Mông Cổ đóng vai trò giới hạn trong xung đột, nhưng nó đã giúp Stalin có phương tiện để buộc phía Trung Hoa Dân Quốc phải công nhận nền độc lập của Mông Cổ. Hiệp ước Trung-Xô đã đánh dấu việc phân chia vĩnh viễn Mông Cổ thành nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ độc lập và vùng Nội Mông thuộc Trung Quốc.[23]

Sau Thế chiến II

Ô Lan Phu, Chủ tịch đầu tiên của Khu tự trị Mông Cổ, ông có biệt danh là "Mông Cổ vương"

Vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, phe cộng sản đã có một lực lượng dân quân, tích cực chống đối nỗ lực độc lập của các thân vương người Mông Cổ thuộc dòng dõi Thành Cát Tư Hãn với danh nghĩa chống chế độ phong kiến. Sau khi kết thúc chiến tranh, Cộng sản đảng đã giành được quyền kiểm soát Mãn Châu cũng như Nội Mông với sự hỗ trợ của Liên Xô. Tháng 4 năm 1947, tại Vương Da miếu (王爺廟) thuộc Ô Lan Hạo Đặc ngày nay, đã diễn ra hội nghị Đại biểu Nhân dân Nội Mông Cổ, hội nghị này đã thông qua việc thành lập chính phủ tự trị Nội Mông Cổ, cử Ô Lan Phu (乌兰夫) làm chủ tịch chính phủ tự trị.

Ban đầu, khu tự trị Mông Cổ chỉ bao gồm khu vực Hô Luân Bối Nhĩ, sau đó nó được mở rộng về phía tây khi quân Cộng sản thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và kiểm soát hoàn toàn Trung Quốc đại lục. Nội Mông cuối cùng bao gồm lãnh thổ 5/6 minh từ thời nhà Thanh (riêng minh Trác Tác Đồ vẫn thuộc tỉnh Liêu Ninh), phần phía bắc của khu vực Sát Cáp Nhĩ (khu vực phía nam thuộc tỉnh Hà Bắc), vùng Hà Sáo. Năm 1954, chính phủ nhân dân khu tự trị Nội Mông Cổ dời đến thành phố Quy Tuy, đổi tên thành Hohhot. Cùng năm, tỉnh Ninh Hạ bị bãi bỏ, các kì A Lạp Thiện và Ngạch Tể Nạp quy thuộc khu tự trị Nội Mông.[24] Năm 1955, tỉnh Nhiệt Hà bị bãi bỏ, ba huyện Xích Phong, Ô Đan, Ninh Thành cùng ba kì Ngao Hán, Khách Lạt Thấm, Ông Ngưu Đặc quy thuộc minh Chiêu Ô Đạt của khu tự trị Nội Mông.

Trong Cách mạng văn hóa, chính phủ của Ô Lan Phu bị thanh lọc, và một làn sóng đàn áp đã được khởi xướng để chống lại người Mông Cổ trong khu tự trị.[25] Năm 1969, một phần lớn lãnh thổ của Nội Mông bị phân chia cho các tỉnh xung quanh, Hô Luân Bối Nhĩ bị phân chia giữa Hắc Long Giang và Cát Lâm, Triết Lý Mộc sáp nhập và Cát Lâm, Chiêu Ô Đạt bị sáp nhập vào Liêu Ninh, còn khu vực A Lạp Thiện và Ngạc Tể Nạp bị phân chia giữa Cam Túc và Ninh Hạ. Đến năm 1979, các vùng đất này lại được chuyển về cho Nội Mông.

Nội Mông Cổ đã phát triển đáng kể kể từ khi Đặng Tiểu Bình khởi xướng cải cách kinh tế vào năm 1978. Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, tăng trưởng GDP của Nội Mông đã vươn lên xếp vào hàng cao nhất tại Trung Quốc, chủ yếu là nhờ ngành công nghiệp tài nguyên thiên nhiên trong khu vực.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nội_Mông http://www.nmgnews.com.cn/news/article/20030922/20... http://d.wanfangdata.com.cn/Periodical_nmgsfdxxb-z... http://intonmg.nmg.gov.cn/channel/zjnmg/col6675f.h... http://www.nmg.gov.cn http://www.stats.gov.cn/english/PressRelease/20190... http://www.gov.cn/test/2012-04/05/content_2107027.... http://www.docin.com/p-43859956.html http://books.google.com/books?id=mhJY7VgEWTUC&pg=P... http://www.nmglxs.com/web/artc/1166.html http://news.sohu.com/20070311/n248644253.shtml